Hiện nay, tổng diện tích của Việt Nam là khoảng 14,7 triệu ha và rừng có vai trò to lớn trong giảm nhẹ biến đổi khí hậu, đặc biệt là hấp thụ khí nhà kính trong khí quyển. Trả lời phỏng vấn xung quanh nội dung này, ông Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững cho rằng, Việt Nam đang ngày càng chú trọng nhiều hơn đến vai trò và giá trị của các-bon rừng, đặc biệt là giá trị hấp thụ và lưu giữ các-bon.
PV: Thưa ông, Việt Nam đã nỗ lực phát triển rừng trong hàng chục năm qua và đến nay, những thành quả đang đóng góp như thế nào vào công cuộc giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu Net Zero?
Ông Vũ Tấn Phương: Chúng ta đều biết rằng rừng có vai trò rất quan trọng trong ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt rừng đã và đang cung ứng các giá trị về dịch vụ hệ sinh thái và các giá trị này lớn hơn rất nhiều so với các giá trị gỗ và lâm sản. Trong giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, chúng ta đang đề cập nhiều hơn về vai trò và giá trị của các-bon rừng, đặc biệt là giá trị hấp thụ và lưu giữ các-bon.
Ông Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vữngTrong 30 năm qua, Việt Nam đã nỗ lực tăng độ che phủ rừng từ 28% năm 1995 lên 42% vào năm 2023. Với tổng diện tích 14,7 triệu ha, rừng Việt Nam đang lưu trữ lượng khí nhà kính (KNK) tương đương khoảng 2,2 tỷ tấn CO2 (CO2tđ). Hiện nay, lâm nghiệp là ngành duy nhất có phát thải ròng âm, tức là lượng hấp thụ các-bon cao hơn lượng phát thải KNK. Ước tính cho thấy hằng năm, phát thải từ rừng là khoảng 30 triệu tấn CO2tđ (do mất rừng, chuyển đổi rừng, khai thác gỗ, suy thoái rừng) và hấp thụ xấp xỉ âm 70 triệu tấn CO2tđ. Điều này đồng nghĩa với lượng phát thải ròng trung bình năm từ rừng là -40 triệu tấn CO2tđ/năm.
PV: Thưa ông, ông có thể chia sẻ những cách thức tạo ra tín chỉ các-bon rừng?
Ông Vũ Tấn Phương: Tín chỉ các-bon trong lâm nghiệp bao gồm tín chỉ tạo ra từ các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính và tín chỉ tạo ra từ hoạt động tăng hấp thụ các-bon. Về giảm phát thải, dư địa vẫn còn bởi các địa phương vẫn đang chịu áp lực về chuyển đổi rừng sang mục đích khác do các động lực triển kinh tế - xã hội, để tạo sinh kế cho cộng đồng địa phương. Trong sản xuất lâm nghiệp phát thải KNK vẫn xảy ra do việc đốt sinh khối và sử dụng phân bón. Về hấp thụ các-bon, chúng ta có thể tạo ra tín chỉ các-bon thông qua các hoạt động trồng rừng mới, phục hồi rừng, nâng cao chất lượng rừng tự nhiên và rừng trồng và áp dụng các phương thức canh tác nông – lâm kết hợp.
Tôi từng nghe một số ý kiến thắc mắc vì sao không chuyển đổi rừng tự nhiên nghèo thành thành rừng trồng có có sinh khối cao hơn để tạo ra tín chỉ các-bon? Có thể tính toán nhanh như sau, để hấp thụ được 1 tấn CO2 trong một năm, khu rừng đó phải có tăng trưởng gỗ là 1m3 gỗ/năm. Đối với dự án tạo tín chỉ các-bon, chúng ta phải tuân thủ một loạt các điều kiện nghiêm ngặt khác, ví dụ, không được phép trồng rừng trên đất có rừng cách đây 5 năm, 10 năm; giai đoạn duy trì tín chỉ các-bon ít nhất phải 10 năm, thậm chí có dự án lên đến 30 năm; các điều kiện về đảm bảo an toàn môi trường, xã hội; chống chuyển đổi rừng tự nhiên. Chúng ta không được phép chỉ quan tâm đến các-bon rừng mà bỏ qua các dịch vụ hệ sinh thái khác của rừng.
PV: Từ việc tư vấn hỗ trợ thực hiện các dự án các-bon rừng, theo ông, trước mắt cần làm gì để thu hút đầu tư tạo tín chỉ các-bon rừng trong bối cảnh tiềm năng từ những cánh rừng của Việt Nam còn rất lớn?
Ông Vũ Tấn Phương: Theo tôi, cần có khung pháp lý rõ ràng về đầu tư, quyền các-bon, chia sẻ lợi ích; cơ chế phối hợp giữa các bộ ngành, địa phương. Đặc biệt, các cơ quan quản lý cần làm rõ vấn đề quyền các-bon trong các quy định pháp luật liên quan, như Luật Lâm nghiệp 2017, Luật Đất đai. Chúng ta kêu gọi đầu tư tư nhân vào ngành lâm nghiệp, trong đó có các dự án tạo tín chỉ các-bon. Vậy cơ chế đầu tư như thế nào? Doanh nghiệp đầu tư vì mục đích quản trị môi trường, xã hội của doanh nghiệp, nhưng họ cũng cần được hỗ trợ, khuyến khích. Có chính sách thì mới tạo động lực lớn để doanh nghiệp quyết tâm đầu tư vào.
Bên cạnh đó, cần đảm bảo minh bạch, công khai thông tin, dữ liệu phục vụ cho đo đạc, báo cáo và thẩm định, chia sẻ lợi ích, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn môi trường xã hội. Tối ưu hóa nguồn lực đầu tư thông qua lồng ghép các chương trình, dự án, đa dạng thị trường các-bon và đảm bảo hiệu quả thực hiện.
Yêu cầu kỹ thuật của các dự án các-bon rừng hoàn toàn khác yêu cầu kỹ thuật của các dự án phát triển lâm nghiệp thông thường. Chúng ta phải xây dựng theo quy trình xác định, có hệ thống MRV và chứng minh được sự chênh lệch giảm phát thải hay tăng hấp thụ các- bon (gọi là tính bổ sung) từ các can thiệp của dự án.
Đo đếm các-bon rừng ngập mặnTheo tôi, doanh nghiệp của Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng về mặt năng lực để đáp ứng xây dựng một dự án tín chỉ các-bon. Văn phòng Chứng chỉ quản lý rừng bền vững hiện cũng đang hỗ trợ tư vấn kỹ thuật cho một số doanh nghiệp xây dựng dự án giảm phát thải theo hướng tự nguyện; đảm bảo năng lực kỹ thuật trong toàn bộ quá trình thực hiện, đặc biệt là năng lực về xây dựng dự án, đo đạc, báo cáo và thẩm định.
Các dự án tạo tín chỉ các-bon trong lĩnh vực lâm nghiệp và sử dụng đất cần lưu ý đến các giá trị đồng lợi ích như bảo vệ và phục hồi môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, cải thiện thu nhập của cộng đồng địa phương. Các yếu tố đồng lợi ích về phát triển bền vững sẽ giúp tăng giá trị tín chỉ các-bon rừng trong các giao dịch tín chỉ các-bon.
Tín chỉ các-bon không phải tất cả, mà là giá trị tăng thêm. Bởi vậy, mỗi địa phương, chủ đầu tư cần lựa chọn các biện pháp phù hợp với điều kiện của mình để tối ưu hóa các giá trị của rừng .
PV: Trân trọng cảm ơn ông!