Từ tháng 3, nhiều chính sách tài nguyên môi trường bắt đầu có hiệu lực. Điển hình như: Nghị định số 10/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định trong lĩnh vực khoáng sản; Thông tư về quy trình kỹ thuật kiểm kê, quan trắc đa dạng sinh học; Bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước khai thác thải, dung dịch khoan và mùn khoan thải của các công trình dầu khí trên biển.
Nghị định trong lĩnh vực khoáng sản
Từ ngày 1/3, Nghị định số 10/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định trong lĩnh vực khoáng sản bắt đầu có hiệu lực. Một trong những điểm mới của Nghị định là quy định khung thời gian khai thác cát, sỏi lòng sông từ 5h - 19h.
Cụ thể: Giấy phép khai thác cát, sỏi lòng sông phải có nội dung quy định thời gian được phép hoạt động khai thác trong ngày, trong khung giờ từ 5h đến 19h.
Căn cứ vị trí địa lý, điều kiện khí hậu, thời tiết, thủy văn, UBND tỉnh quyết định thời gian khai thác cụ thể đối với từng giấy phép, hồ sơ đăng ký nhưng không vượt quá khung thời gian quy định nêu trên.
Từ tháng 3, khung thời gian khai thác cát, sỏi lòng sông là từ 5h - 19hLiên quan đến việc sử dụng thông tin điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, thăm dò, khai thác khoáng sản, Nghị định mới quy định: Tổ chức, cá nhân được quyền sử dụng thông tin về khoáng sản do mình đầu tư hoặc thông tin về khoáng sản thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc tổ chức, các nhân khác đã được hoàn trả chi phí theo quy định tại Điều 3 Nghị định này và có quyền chuyển nhượng, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật.
Tổ chức, cá nhân thăm dò khoáng sản bằng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước không được cung cấp, chuyển nhượng thông tin về kết quả thăm dò khoáng sản cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Sau 6 tháng kể từ ngày trữ lượng khoáng sản được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và đã hết thời hạn Giấy phép thăm dò khoáng sản mà tổ chức, cá nhân được phép thăm dò không nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép khai thác khoáng sản thì cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền được cung cấp thông tin về khoáng sản ở khu vực đó cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng để lập hồ sơ đề nghị cấp phép khai thác khoáng sản, trừ trường hợp bất khả kháng. Tổ chức, cá nhân sử dụng thông tin thăm dò khoáng sản có trách nhiệm hoàn trả chi phí thăm dò cho tổ chức, cá nhân đã đầu tư thăm dò trước đó theo quy định của pháp luật.
Quy trình kỹ thuật kiểm kê, quan trắc đa dạng sinh học
Cũng từ ngày 1/3, Thông tư số 53/2024/TT-BTNMT về quy trình kỹ thuật kiểm kê, quan trắc đa dạng sinh học bắt đầu có hiệu lực. Thông tư này đã quy định cụ thể về quy trình kỹ thuật kiểm kê hệ sinh thái rừng.
Theo đó, các chỉ tiêu cần kiểm kê hệ sinh thái rừng gồm: Tổng diện tích rừng tự nhiên trong từng khu bảo tồn thiên nhiên, hành lang đa dạng sinh học và khu vực đa dạng sinh học cao; Tổng diện tích rừng ngập mặn trong từng khu bảo tồn thiên nhiên, hành lang đa dạng sinh học và khu vực đa dạng sinh học cao.
Quy trình kỹ thuật kiểm kê gồm các bước như: Thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến chỉ tiêu kiểm kê tính từ thời điểm kiểm kê trở về trước để làm số liệu nền của chỉ tiêu kiểm kê hệ sinh thái rừng; Tổ chức hoạt động điều tra thực địa được triển khai theo quy trình điều tra, kiểm kê, theo dõi diễn biến rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp; Đánh giá, đối chiếu, so sánh giữa số liệu nền với số liệu thực tế đo đạc trên thực địa và làm rõ lý do sai lệch (nếu có);
Xây dựng bản đồ hiện trạng các hệ sinh thái rừng tự nhiên, rừng ngập mặn trong từng khu bảo tồn thiên nhiên, hành lang đa dạng sinh học và khu vực đa dạng sinh học cao đảm bảo tuân thủ theo quy định của pháp luật về đo đạc và bản đồ (nếu có); Ghi số liệu, kết quả tổng hợp vào biểu mẫu tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Thông tư này; Cập nhật dữ liệu vào cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học quốc gia và gửi kết quả kiểm kê về Bộ Tài nguyên và Môi trường. Bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh.
Quy chuẩn về nước khai thác thải của các công trình dầu khí trên biển
Quy chuẩn này được quy định cụ thể tại Thông tư số16/2024/TT-BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước khai thác thải, dung dịch khoan và mùn khoan thải của các công trình dầu khí trên biển, có hiệu lực từ ngày 26/3.
Theo Thông tư, nước khai thác thải là nước phát sinh từ các vỉa dầu khí (hỗn hợp của nước vỉa, nước bơm ép và dung dịch hỗn hợp các chất được đưa vào trong giếng) được tách ra trong quá trình khai thác dầu; Hàm lượng dầu mỡ khoáng trung bình ngày trong nước khai thác thải là trung bình cộng giá trị tổng hàm lượng dầu mỡ khoáng của 4 mẫu nước khai thác thải, mỗi mẫu được lấy cách nhau 6 giờ trong 1 ngày.
Nước khai thác thải phải được thu gom, xử lý bảo đảm giá trị giới hạn cho phép của hàm lượng dầu mỡ khoáng trung bình ngày được quy định trước khi xả thải xuống vùng biển Việt Nam.
Việc xả nước khai thác thải được đánh giá là tuân thủ và phù hợp với Quy chuẩn này khi kết quả quan trắc, phân tích của hàm lượng dầu mỡ khoáng trung bình ngày có trong nước khai thác thải sau khi xử lý không vượt quá giá trị giới hạn cho phép.
Về trách nhiệm, khi xả nước khai thác xuống vùng biển Việt Nam, dự án đầu tư, cơ sở khai thác dầu khí phải bảo đảm giá trị của hàm lượng dầu mỡ khoáng trung bình ngày trong nước khai thác thải không được vượt quá giá trị giới hạn cho phép theo quy định.
Chủ đầu tư dự án khai thác dầu khí trên biển có trách nhiệm thực hiện các quy định tại Quy chuẩn này trong quá trình hoạt động, đồng thời cung cấp thông tin đầy đủ về việc xả nước khai thác cho các cơ quan quản lý khi được yêu cầu.
Bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo
Từ ngày 10/3, Thông tư số 01/2025/TT-BKHĐT quy định bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh sẽ bắt đầu có hiệu lực.
Bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10/3Theo đó, bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh là bộ chỉ tiêu thống kê liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, liên kết vùng về kinh tế, xã hội và môi trường liên quan đến biển nhằm cung cấp số liệu, đánh giá tình hình phát triển bền vững kinh tế biển của Việt Nam.
Cũng theo thông tư trên, diện tích nuôi trồng thủy sản biển áp dụng quy trình thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (VietGAP) và tương đương là diện tích mặt nước biển được sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản đạt các tiêu chuẩn chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt và tương đương.
Thực hành nuôi trồng thủy sản tốt tại Việt Nam (VietGAP) là quy phạm thực hành ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản nhằm đảm bảo các yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm thiểu dịch bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường sinh thái, đảm bảo trách nhiệm xã hội và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Tiêu chuẩn thực hành nuôi trồng thủy sản tương đương VietGAP như các tiêu chuẩn ASC (do Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản được thành lập bởi Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên WWF và Tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững Hà Lan IDH xây dựng và ban hành); tiêu chuẩn BAP (thực hành nuôi trồng thủy sản tốt nhất do Liên minh Nuôi trồng thủy sản toàn cầu GAA xây dựng và ban hành); tiêu chuẩn nuôi trồng thủy sản hữu cơ...
Diện tích nuôi trồng thủy sản biển được chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (VietGAP) và tương đương là kết quả cộng dồn diện tích nuôi trồng thủy sản biển được chứng nhận VietGAP hoặc chứng nhận khác tương đương (đang còn hiệu lực) trên địa bàn tại thời điểm báo cáo.