Xuất phát từ thực tiễn, xu hướng khai thác tài nguyên, sản xuất và tiêu dùng, phát sinh chất thải do phát triển kinh tế - xã hội; bối cảnh trong nước và quốc tế; những thuận lợi, tồn tại và hạn chế trong thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam cho thấy việc xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành "Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2030" là phù hợp và hết sức cần thiết.
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại điểm a khoản 1 Điều 139 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường và Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2023 của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2030.
Sự cần thiết phải xây dựng Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn
Tài nguyên là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt quan trọng để phát triển đất nước; môi trường là nơi cung cấp không gian sinh tồn cho con người, sinh vật và đồng thời là nơi tiếp nhận, đồng hóa chất thải của các hoạt động kinh tế, dân sinh, cung cấp các dịch vụ cho con người; biến đổi khí hậu không chỉ là những vấn đề toàn cầu, mà còn tác động trực tiếp tới từng quốc gia, từng địa phương trên tất cả các khía cạnh kinh tế - xã hội. So với nhiều quốc gia trên thế giới, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam có ưu thế về điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, còn các nguồn tài nguyên khác như khoáng sản, năng lượng đa dạng và phong phú về chủng loại nhưng phần lớn qui mô nhỏ, dự báo khả năng khó đáp ứng cho phát triển kinh tế một số ngành với nhu cầu ngày càng tăng; gia tăng dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa ngày càng mạnh mẽ, kèm theo xu hướng tiêu dùng nhanh, thiếu bền vững dẫn đến nguồn thải đưa ra môi trường đã và sẽ tiếp tục gia tăng mạnh nếu không có những cách tiếp cận, biện pháp giải quyết hữu hiệu.
Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; đưa tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển trong tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, hướng đến phát triển bền vững, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chỉ đạo kịp thời bằng những chủ trương, định hướng tổng thể, cụ thể và sát thực, được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị, Kết luận và Chỉ thị của Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền địa phương.
Trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp đã nghiêm túc triển khai thực hiện các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu và đạt được nhiều kết quả tích cực. Nhiều sáng kiến, giải pháp chính sách đã được ban hành để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, ngăn chặn ô nhiễm và suy thoái môi trường, yêu cầu ứng phó với biến đổi khí hậu. Đến nay, mô hình tăng trưởng của Việt Nam đã có những tín hiệu chuyển biến tích cực “từ chiều rộng” sang “chiều sâu”, chú trọng hơn đến chất lượng tăng trưởng, tín hiệu chuyển dịch theo chiều hướng giảm dần sự phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, chú trọng hơn tới bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường còn chứa đựng những nguy cơ và thách thức, tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác, sử dụng hiệu quả; khối lượng chất thải phát sinh ngày càng tăng; tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường, đa dạng sinh học chưa được hạn chế trong bối cảnh xu hướng gia tăng dân số và đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đặt ra yêu cầu về nguồn tài nguyên, vật liệu và năng lượng cho phát triển kinh tế xã hội và áp lực từ chất thải phát sinh ngày càng tăng.
Hiện trạng và xu hướng khai thác, sử dụng tài nguyên
Từ cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế cho thấy kinh tế tuần hoàn xem xét đến các nguồn tài nguyên, nguyên liệu đầu vào chính của hoạt động sản xuất, kinh doanh của mỗi quốc gia, địa phương là khoáng sản, nước và nguồn tài nguyên sinh khối. Trong những năm qua việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên này như sau:
Nguồn lực tài nguyên khoáng sản đã được phát huy trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội; từng bước kiểm soát tình trạng khai thác khoáng sản trái phép. Đến nay, đã xác định nhiều vùng với nhiều loại khoáng sản tiềm năng như: than đồng bằng sông Hồng, urani Quảng Nam, đồng Kon Tum, vàng, thiếc, wolfram và khoáng chất công nghiệp vùng Tây Bắc. Giai đoạn từ 2011 đến nay, Việt Nam cơ bản đã đáp ứng nhu cầu nguyên liệu khoáng sản trong nước và một phần xuất khẩu, đặc biệt là một số lĩnh vực quan trọng như: dầu khí, than, quặng kim loại, quặng phi kim, hóa chất,... Tỷ lệ đóng góp của ngành khai khoáng vào tổng sản phẩm quốc nội có xu hướng giảm, năm 2011 ngành khai khoáng đóng góp 6,4% và giảm xuống còn 2,8% vào năm 2022, cho thấy Việt Nam phát triển kinh tế đang bớt phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Theo phương pháp phân tích dòng vật liệu, để tạo ra một nghìn đồng GDP thì cần tiêu tốn hết khoảng 19,19g than đá hoặc 0,25g sắt, thép hoặc 1,6g dầu thô - đây là tín hiệu tích cực phản ánh mức độ phụ thuộc của nền kinh tế và nguyên liệu thô đã giảm dần.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị tiên tiến, hiện đại trong khai thác, chế biến khoáng sản, nhất là đối với lĩnh vực khai thác, chế biến than, xi măng... tạo sự chuyển biến phát triển từ “bề rộng” chuyển hướng sang “chiều sâu” theo hướng bền vững, giảm tiêu hao điện, năng lượng, giảm tổn thất tài nguyên khoáng sản, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chính sách đấu giá quyền khai thác khoáng sản, thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được triển khai góp phần chuyển hóa chuyển hóa nguồn tài nguyên khan hiếm, không tái tạo thành nguồn lực và đóng góp cho mục tiêu tăng trưởng, phát triển chung. Tuy nhiên, trong hoạt động khai thác chưa tận dụng và sử dụng hiệu quả các khoáng sản đi kèm, đất đá thải bỏ từ hoạt động khai thác chưa được xem là tài nguyên cho các hoạt động kinh tế khác.
Trên thế giới, tình trạng gia tăng giá cả, cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là những loại khoáng sản chiến lược phục vụ cho phát triển năng lượng, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ cao… đòi hỏi các quốc gia như Việt Nam cần có giải pháp chiến lược để tận dụng hiệu quả nguồn tài nguyên trong nước, giảm thiểu áp lực về nguồn cung các nguyên liệu, vật liệu cho hoạt động kinh tế.
Tài nguyên nước được tăng cường quản lý, an ninh nguồn nước được chú trọng bảo đảm trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hướng dẫn, đôn đốc các địa phương thực hiện quy định về hạn chế khai thác nước dưới đất; chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đã góp phần làm thay đổi nhận thức và hành vi theo hướng sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả hơn. Tính đến hết năm 2021, lượng nước khai thác sử dụng của các công trình đã được cấp giấy phép khoảng 40,69 tỷ m3/năm chiếm xấp xỉ 8% tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam, trong đó lượng nước mặt khoảng 39,05 tỷ m3/năm và lượng nước dưới đất khoảng 1,64 tỷ m3/năm. Có thể thấy với 1 m3 nước được khai thác sẽ tạo ra được 126.173,05 đồng GDP. Theo mục đích sử dụng, tổng lượng nước tưới khoảng 20,43 tỷ m3/năm, sinh hoạt và công nghiệp khoảng 20,26 tỷ m3/năm. Tiềm năng thủy điện của Việt Nam là khá lớn, tập trung chủ yếu trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Đồng Nai, Vu Gia - Thu Bồn,…
Trên phạm vi cả nước hiện có 493 dự án thuỷ điện (đến đầu năm 2021) đã được đưa vào vận hành, khai thác với tổng công suất lắp máy là 20.603MW, chiếm khoảng 30% tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện quốc gia1. Tổng dung tích các hồ chứa trên 54 tỷ m3, chiếm 86% tổng dung tích hồ chứa cả nước2. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng tài nguyên nước còn thấp so với thế giới và khu vực, theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, với mỗi một đơn vị m3 nước, Việt Nam chỉ tạo ra 2,37 đôla GDP, bằng khoảng 1/10 so với mức trung bình toàn cầu là 19,42 đôla.
Nguồn tài nguyên sinh khối lớn nhất của Việt Nam là rừng. Hiện nay tổng diện tích đất có rừng bao gồm cả rừng trồng chưa khép tán là 14.745.201 ha; trong đó, rừng tự nhiên là 10.171.757 ha; rừng trồng là 4.573.444 ha. Diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính tỉ lệ che phủ toàn quốc là 13.923.108 ha, tỉ lệ che phủ là 42,02%. Các chính sách hỗ trợ phát triển lâm nghiệp đã tương đối đầy đủ và rõ ràng, cho phép người dân, doanh nghiệp khai thác kinh tế nhằm mục tiêu bảo vệ rừng hiệu quả và phát triển rừng bền vững đối với một số loại rừng.
Ở Việt Nam, một số địa phương đã ban hành quy định tạm thời cho thuê môi trường rừng để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí. Bên cạnh việc khai thác môi trường rừng, khai thác gỗ - sản phẩm từ rừng cũng đem lại giá trị kinh tế cao. Ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu của Việt Nam đã và đang phát triển nhanh và ổn định, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm đồ gỗ trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu bền vững. Hàng năm nước ta sử dụng khoảng 35 triệu m3 gỗ rừng trồng; nhập khẩu 5-6 triệu m3 gỗ quy tròn. Diện tích rừng trồng sản xuất đáp ứng gần 80% nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu trong chế biến.
Theo Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn năm 2050 thì định hướng phát triển nền công nghiệp chế biến gỗ theo hướng phát triển cơ giới hóa và công nghiệp chế biến lâm sản theo hướng ứng dụng công nghệ hiện đại, thông minh, hiệu quả, an toàn, ít phát thải và bền vững. Áp dụng kinh tuần hoàn trong lĩnh vực chế biến gỗ sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu trong Chiến lược phát triển Lâm nghiệp khi gắn kết giữa việc phát triển công nghiệp chế biến gỗ với bảo vệ tài nguyên rừng.
Hiện trạng và xu hướng sản xuất, tiêu dùng
Thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng bền vững, sản xuất sạch hơn và sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường là một trong những chiến lược ưu tiên để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Tính đến hết năm 2020, cả nước có 284 khu công nghiệp đang hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 85 nghìn ha. Trong đó, có 258 khu công nghiệp (chiếm 90,85%) đã có hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn môi trường. Tại các địa phương có số lượng khu công nghiệp lớn như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Quảng Ninh và Bắc Ninh, tỷ lệ doanh nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đạt 100%. Nhìn chung, nhiều địa phương đã chú trọng lựa chọn, thu hút các dự án công nghệ cao, dự án có tỷ lệ đầu tư về môi trường lớn, một số địa phương đã bước đầu thực hiện việc phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường trong quá trình thu hút đầu tư thông qua việc lựa chọn những ngành nghề, dự án đầu tư có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương về sản xuất và tiêu dùng bền vững cho thấy: Đến năm 2020 tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng công nghệ sạch và công nghệ bền vững trong lĩnh vực tiêu thụ năng lượng chuyên sâu và ô nhiễm môi trường đạt 60 – 70%; 50% doanh nghiệp sản xuất áp dụng các giải pháp sản xuất và tiết kiệm năng lượng sạch hơn, ứng dụng thí điểm dần mở rộng đổi mới sinh thái cho các doanh nghiệp, khu công nghiệp và cụm công nghiệp; 50% doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối được đào tạo và thực hiện các giải pháp sản xuất và tiết kiệm năng lượng sạch hơn; 65% túi nilon sử dụng trong các siêu thị và trung tâm mua sắm và 50% tại các chợ truyền thống không thân thiện với môi trường (so với năm 2010); áp dụng chứng nhận phân phối xanh cho nhà phân phối, phát triển thành công và dần mở rộng chuỗi cung ứng bền vững cho các sản phẩm chính trong nền kinh tế,chuỗi bán lẻ xanh.
Tỷ lệ sản phẩm bền vững trong tổng khối lượng sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam tăng dần; giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế (3Rs) được tăng cường cho các sản phẩm như túi nhựa, giấy, dầu, sắt và thép; chất thải rắn đô thị được tái chế, tái sử dụng; nhiều địa phương áp dụng biện pháp thu hồi, tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng trong xử lý chất thải, ước tính 90% chất thải giấy và dầu thải sẽ được tái chế, 75% chất thải rắn công nghiệp thông thường được thu hồi để tái sử dụng và tái chế. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã có những tín hiệu tích cực từ phía cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã và các cơ sở kinh tế trong việc áp dụng các phương thức sản xuất bền vững, sản xuất sạch hơn, áp dụng các công nghệ số trong quản lý, sản xuất, phân phối và thu hồi chất thải trong hoạt động sản xuất, kinh doanh5, nhiều doanh nghiệp ngành đồ uống, dệt may, hóa chất đã áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn để giảm thiểu nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng, giảm chất thải và tác động xấu đến môi trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực thì tình trạng sản xuất chưa bền vững, xả chất thải chưa qua xử lý hoặc chưa đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn ra môi trường còn phổ biến.
Cùng với đó, tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa được dự báo là diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn tiếp theo, nhu cầu và áp lực về tài nguyên, phát sinh chất thải và tác động xấu đến môi trường do các hoạt động kinh tế, dân sinh sẽ tiếp tục gia tăng mạnh trong thời gian tới. Đối chiếu với nội hàm, định nghĩa kinh tế tuần hoàn trong Luật Bảo vệ môi trường – “Kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường”; các biện pháp, chiến lược của kinh tế tuần hoàn và yêu cầu về tiếp cận hệ thống, điều kiện về công nghệ số và đổi mới sáng tạo của kinh tế tuần hoàn mà các quốc gia, khu vực đang thúc đẩy cho thấy, Việt Nam còn nhiều hạn chế, chất thải chưa được xem là tài nguyên trong quá trình thiết kế (bao gồm cả thiết kế các chiến lược, chương trình, đề án phát triển và quản lý chất thải; thiết kế các cơ sở sản xuất, kinh doanh và khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu đô thị, khu dân cư tập trung; các sản phẩm và kênh phân phối chưa theo hướng tận dụng tối đa giá trị của chất thải), khối lượng chất thải từ hoạt động sản xuất, kinh doanh và xả thải sau tiêu dùng vẫn đang và dự báo sẽ phát sinh mạnh nếu không có các giải pháp kịp thời, đồng bộ. Các dịch vụ thiết kế sinh thái, thiết kế bền vững, thiết kế để thực hiện tiêu chí của kinh tế tuần hoàn chưa phát triển.
Việc áp dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ số trong quản lý chuỗi cung ứng, phát triển các mô hình kinh doanh tuần hoàn, đô thị tuần hoàn, chuỗi cung ứng tuần hoàn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu. Khu vực tiêu dùng bao gồm 02 nhóm chính là tiêu dùng công hay mua sắm công của chính phủ và tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, cá nhân đã có những tín hiệu tích cực cả về thể chế, chính sách và thực tiễn. Các dự án đầu tư công sử dụng ngân sách nhà nước đều cân nhắc các yêu cầu của pháp luật bảo vệ môi trường trong đánh giá tác động môi trường, tuân thủ các quy định về quản lý chất thải trong quá trình phê duyệt, xây dựng và thực thi.
Xu hướng tiêu dùng bền vững, tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng có nhiều tín hiệu tích cực và ngày trở nên phổ biến, góp phần hình thành nên thị trường mới cho các sản phẩm tiềm năng của Việt Nam. Chọn mua nhiều hơn các sản phẩm có yếu tố “xanh”, lựa chọn các phương thức tiêu dùng bền vững, thân thiện với môi trường, sẵn sàng chi trả cho những sản phẩm có yếu tố “bền vững”… đang là những thay đổi tích cực của xu hướng tiêu dùng được nhiều doanh nghiệp nắm bắt.
Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực cho khu vực tiêu dùng công và tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, cá nhân thì còn tồn tại nhiều thách thức đặt ra cho môi trường do thay đổi về phương thức tiêu dùng trong bối cảnh bùng nổ của thương mại điện tử. Tính bền vững của sản phẩm chưa được các doanh nghiệp cân nhắc để thiết lập hiệu quả các giải pháp như bảo hành, bảo hiểm, tân trang, sửa chữa, thu hồi, tái chế, phục hồi … theo cách thức của kinh tế tuần hoàn.
Hiện trạng và xu hướng phát sinh chất thải
Kinh tế tuần hoàn đòi hỏi các quốc gia, địa phương, cơ sở sản xuất kinh doanh phải xem chất thải là trung tâm và là tài nguyên được cân nhắc ngay từ giai đoạn thiết kế, khai thác tài nguyên, chế biến, sản xuất, phân phối, tiêu dùng và thải bỏ. Giai đoạn vừa qua, việc phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị, gia tăng dân số đã mang lại cho Việt Nam những thành tựu đáng kể trên nhiều mặt.
Tuy nhiên, thách thức đặt ra ở hiện tại và tương lai chính là việc phát sinh chất thải (bao gồm: chất thải rắn, nước thải và khí thải) ngày càng tăng trên tất cả các ngành, lĩnh vực và hoạt động dân sinh của nền kinh tế, cụ thể như sau:
- Về chất thải rắn sinh hoạt: Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hiện nay lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại các đô thị (chủ yếu từ các hộ gia đình, khu vực công cộng như đường phố, chợ, văn phòng, trường học,...) khoảng 38.000 tấn/ngày, tại khu vực nông thôn khoảng 32.000 tấn/ngày. Ước tính lượng chất thải rắn sinh hoạt ở các đô thị phát sinh trên toàn quốc tăng trung bình 10 – 16% mỗi năm. Tại hầu hết các đô thị khối lượng chất thải rắn sinh hoạt chiếm khoảng 60-70% chất thải rắn đô thị (một số đô thị tỷ lệ này lên đến 90%)7. Hiện nay, hệ số phát sinh chất thải rắn sinh hoạt trung bình đối với đô thị là 1,008 kg/người/ngày; hệ số phát sinh chất thải rắn sinh hoạt trung bình ở khu vực nông thôn là 0,727 kg/người/ngày.
Theo dự báo, đến năm 2030 lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở khu vực đô thị là 53.323 tấn/ngày (khoảng 19,61 triệu tấn/năm). Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có lượng chất thải rắn sinh hoạt lớn nhất (29,92%), tiếp đến vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (20,66%). Lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở khu vực nông thôn là 38.458 tấn/ngày (khoảng 14,03 triệu tấn/năm), chiếm 35,66% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh toàn quốc.
Đến năm 2050, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh là 95.721 tấn/ngày (khoảng 34,96 triệu tấn/năm). Trong đó, lượng chất thải rắn sinh hoạt tại khu vực đô thị là 73.006 tấn/ngày (khoảng 26,66 triệu tấn/năm), chiếm 76% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh. Việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt vẫn chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp (khoảng 71% khối lượng chất thải rắn sinh hoạt thu gom được xử lý bằng phương pháp chôn lấp) với khối lượng khoảng 35.000 tấn/ngày, nhưng chỉ có khoảng 20% các bãi chôn lấp rác hiện nay là hợp vệ sinh, phần lớn còn lại là các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh hoặc các bãi tập kết chất thải cấp xã. Hầu hết, các bãi chôn lấp tiếp nhận chất thải rắn sinh hoạt chưa được phân loại tại nguồn, có thành phần hữu cơ cao nên tính ổn định thấp, chiếm dụng diện tích đất nhiều, gây ô nhiễm môi trường do mùi hôi, khí thải, nước rỉ rác phát sinh; nhiều trường hợp gây ra sự cố phải xử lý phức tạp và tốn kém. Một số địa phương đã triển khai thí điểm chương trình phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, tuy nhiên việc phân loại đem lại hiệu quả chưa cao, mang tính đơn lẻ, không đồng bộ, chưa hội đủ được các điều kiện để nhân rộng.
- Về chất thải rắn từ hoạt động công nghiệp và xây dựng: Hàng năm, chất thải rắn công nghiệp phát sinh khoảng 25 triệu tấn, trong đó chất thải rắn từ các khu công nghiệp phát sinh khoảng 8,1 triệu tấn/năm; từ hoạt động khai thác khoáng sản khoảng 3 triệu tấn/năm. Chất thải rắn phát sinh từ ngành công nghiệp nhiệt điện than: Việt Nam hiện có 23 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động với tổng công suất lắp đặt khoảng 13.110 MW. Theo tính toán của Bộ Công Thương, chỉ riêng lượng tro, xỉ tích lũy của các nhà máy nhiệt điện hiện nay là 61 triệu tấn, dự kiến đến năm 2020 là 109 triệu tấn, đến năm 2025 là 248 triệu tấn và đến năm 2030 sẽ là 422 triệu tấn. Việc phải chuẩn bị một quỹ đất quá lớn để làm bãi chứa cho lượng tro xỉ này là thách thức rất lớn trong thời gian tới.
Cùng với chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn xây dựng cũng đang phát sinh mạnh, với tốc độ tăng trưởng ngành xây dựng Việt Nam bình quân 8,5-8,7%/năm8. Hoạt động thi công xây dựng các công trình xây dựng giao thông, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình công nghiệp, công trình dân dụng, vận chuyển nguyên vật liệu, phế thải xây dựng,... diễn ra ở khắp nơi, đặc biệt là các đô thị lớn. Chất thải từ hoạt động xây dựng sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới trong khi đó việc tái chế, tái sử dụng chất thải từ hoạt động xây dựng còn hạn chế do vấn đề công nghệ và chi phí.
- Về chất thải rắn từ hoạt động nông nghiệp: Hàng năm, hoạt động nông nghiệp phát sinh khoảng 76 triệu tấn rơm rạ, 85-90 triệu tấn chất thải chăn nuôi, hơn 14.000 tấn bao gói thuốc bảo vệ thực vật, phân bón các loại sau sử dụng. Trong hoạt động trồng trọt, tình trạng sử dụng hóa chất trong nông nghiệp như phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật đang diễn ra tràn lan, thiếu kiểm soát. Mỗi năm có hơn 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật được sử dụng, trong đó có 80% sử dụng sai mục đích, không đúng kỹ thuật; 50%-70% số hóa chất này không được cây trồng hấp thụ, thải ra môi trường. Lượng rơm rạ và các phụ phẩm nông nghiệp khác phát sinh nhiều và chiếm thành phần chủ yếu trong chất thải rắn nông nghiệp. Tại các vùng đồng bằng, diện tích canh tác lớn nên lượng chất thải từ trồng trọt cũng lớn, thành phần chất thải cũng rất khác so với vùng trung du, miền núi. Với khoảng 7,5 triệu ha đất trồng lúa, hàng năm lượng rơm rạ thải ra lên tới 76 triệu tấn. Tuy nhiên, hiện nay lượng rơm rạ thải này không được tính toán trong thống kê lượng chất thải rắn phát sinh củacác địa phương cũng như toàn quốc.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, cả nước có 8,5 triệu hộ chăn nuôi hộ gia đình, trung bình mỗi năm ngành chăn nuôi thải ra 85-90 triệu tấn chất thải chăn nuôi, nhưng chỉ khoảng 40% được xử lý, còn xả thải trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sức khỏe người dân. Theo dự báo của ngành chăn nuôi, với tốc độ phát triển hiện nay, mỗi năm sẽ phát sinh khoảng 1,2 triệu tấn chất thải. Việt Nam có tiềm năng lớn về nguồn phụ phẩm, chất thải từ hoạt động nông nghiệp.
Theo báo cáo của Cục Trồng trọt (2021), cả nước ước khoảng 150,3 triệu tấn phụ phẩm từ hoạt động trồng trọt (ước khoảng 88,9 triệu tấn), chăn nuôi (ước khoảng 61,4 triệu tấn). Việc sử dụng các phụ phẩm từ hoạt động nông nghiệp đã có những tín hiệu tích cực, nhiều sản phẩm được xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng như Châu Âu. Ước tính đến nay, tỷ lệ thu gom một số phụ phẩm chính trong lĩnh vực trồng trọt gồm: vỏ lạc 84,9%, thân ngô 63,5%, rơm lúa 56,3%, thân cây sắn 19,5%, vỏ đậu tương 10,6%, củi từ cây lâu năm 7,8% và củi từ cây hàng năm 0,6%; tận dụng rơm, rạ từ cây lúa để làm thức ăn thô cho gia súc, độn chuồng, đệm lót sinh học, nấm rơm, phủ luống, phủ gốc cho cây trồng; sử dụng để lót các loại quả; bán, ủ compost là phân bón hữu cơ truyền thống và đốt.
Trong lĩnh vực chăn nuôi: tại nông hộ khoảng 48,5% sử dụng ủ phân truyền thống (compost); 11% khí sinh học; 6% sử dụng chế phẩm vi sinh vật; 2,7% sử dụng đệm lót sinh học và 31,8% là bán, nuôi trùn quế, thải… trong hoạt động nuôi trồng và chế biến thủy sản, tỷ lệ thu gom chất thải đạt hơn 90%, phần lớn chất thải được xử lý, chết biến thông qua các biện pháp như: tách chiết các hợp chất sinh học; làm thức ăn: protein, dầu cá, dịch protein thủy phân… làm phân bón hưu cơ.
Theo đó, lượng chất thải phát sinh từ hoạt động nông nghiệp rất lớn, nếu tận dụng tốt các giải pháp của kinh tế tuần hoàn sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển các sản phẩm, vật liệu và nguồn năng lượng tiềm năng.
- Về nước thải: Đối với nước thải từ hoạt động công nghiệp: sự phát triển của các ngành công nghiệp đã và đang tiếp tục được mở rộng trên phạm vi cả nước, nhu cầu sử dụng nước và xả thải nước từ hoạt động công nghiệp gia tăng nhanh chóng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2020, trên cả nước có 239.755 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (chiếm 31,6% tổng số doanh nghiệp trên cả nước), 115.548 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến, chế tạo (chiếm 15%). Ước tính mỗi ngày hiện có hơn 3 triệu m3 nước thải công nghiệp, 130.000 m3 nước thải y tế phát sinh trên cả nước.
Cả nước hiện có 49 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung đã đi vào vận hành với tổng công suất thiết kế 1.181.380 m3/ngày đêm; hệ thống thoát nước trên toàn quốc đạt 60% nhưng tổng lượng nước thải được thu gom, xử lý tại các đô thị còn rất thấp, mới chỉ đạt khoảng 15%. Công tác xử lý nước thải còn rất chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Trong các ngành sản xuất, 59% nước thải nuôi trồng thủy sản, 9% lượng nước thải y tế chưa được xử lý. Thực tiễn cho thấy, tình trạng ô nhiễm môi trường nước, đặc biệt là các nguồn cấp nước phục vụ sinh hoạt do nước thải đô thị, nước thải từ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, hoạt động chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản phát sinh ngày càng lớn, hầu hết chưa qua xử lý hoặc xử lý không đạt Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, xả ra môi trường.
Đối với nước thải sinh hoạt: Tốc độ gia tăng dân số và quá trình đô thị hóa đang gây sức ép rất lớn đến môi trường nước và sử dụng tài nguyên nước. Hầu hết, các đô thị đều tập trung ven các sông lớn, hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ, thường bị quá tải dẫn đến làm ô nhiễm, suy giảm chất lượng nước mặt các dòng sông chảy qua, đặc biệt là sông chảy qua nội thành TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh. Nước thải sinh hoạt chưa được xử lý, xả thẳng ra môi trường là nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước mặt trong các đô thị, khu dân cư và các vùng lân cận. Với dân số năm 2020 là 97,34 triệu người, lượng nước thải phát sinh ra môi trường là rất lớn. Theo thống kê, năm 2020, môi trường phải tiếp nhận hơn 3.650 triệu m3 nước thải sinh hoạt (trung bình 10 triệu m3/ngày đêm); trong đó nước thải sinh hoạt khu vực nông thôn chưa qua xử lý chiếm tỷ lệ lớn (60%), hơn 144 triệu m3 nước thải chăn nuôi (từ ba đối tượng vật nuôi chính là trâu, bò, lợn), hơn 1.524,85 triệu m3 nước thải nuôi trồng thủy sản.
Ngoài ra, lượng lớn nước thải từ các làng nghề, các vùng phụ cận chưa được xử lý xả trực tiếp ra môi trường. Lượng nước thải phát sinh tại các bệnh viện, viện có giường bệnh khoảng trên 45,625 triệu m3/ngày đêm, chưa kể lượng nước thải từ các cơ sở y tế dự phòng, các cơ sở đào tạo y dược và sản xuất thuốc; trong đó còn khoảng 10% chưa được thu gom xử lý (hơn 4,56 triệu m3/ngày). Ngoài ra, việc tăng cao nhu cầu xây dựng đô thị, nhà ở, kết cấu hạ tầng cũng làm gia tăng nhu cầu cát sỏi cho xây dựng và theo đó, cũng làm gia tăng các hoạt động khai thác cát sỏi trên sông, gây xói lở bờ sông và phát tán chất ô nhiễm làm suy giảm chất lượng nước.
- Về khí thải: Từ các phương tiện giao thông: đến hết năm 2020, trên cả nước có 4.180.478 xe ô tô, hàng chục triệu xe mô tô, xe máy đang lưu hành; 3.741.951 xe mô tô, xe máy, ô tô được lắp ráp, sản xuất hoặc nhập khẩu mới; vận tải hành khách đạt 3.561,9 triệu lượt khách vận chuyển. Hoạt động của các phương tiện giao thông là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt là ở các khu vực đô thị có mật độ giao thông cao.
Từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh: trên cả nước hiện có hàng chục các khu tổ hợp, liên hợp trong đó tập trung nhiều dự án, loại hình sản xuất bôxít, gang thép, lọc hóa dầu, trung tâm điện lực9, hàng ngày phát sinh lượng lớn khí thải công nghiệp; có 27 nhà máy nhiệt điện đốt than và 50 nhà máy xi măng đang vận hành với lượng khí thải rất lớn. Đặc biệt, để góp phần giảm lượng khí các-bon dioxit, thì cắt giảm khí mê-tan là đòn bẩy mạnh nhất mà chúng ta có để làm chậm biến đổi khí hậu trong những thập kỷ tới bên cạnh những nỗ lực cần thiết để giảm lượng khí các-bon dioxit. Theo kết quả kiểm kê khí mê-tan năm 202010, tổng lượng khí mê-tan phát thải năm 2020 là 111.281,88 nghìn tấn CO2 tương đương; các nguồn phát thải khí mê-tan chính bao gồm canh tác lúa (45,22%), chăn nuôi (17,55%), bãi chôn lấp chất thải rắn (11,86%), xử lý và xả thải nước thải (10,33%) và phát thải phát tán từ khai thác dầu và khí tự nhiên (9,11%). Các nguồn phát thải khí mê-tan khác bao gồm phát thải phát tán từ khai thác than, đốt sinh khối, các hoạt động đốt nhiên liệu, thiêu đốt và đốt lộ thiên chất thải, xử lý chất thải rắn bằng phương pháp sinh học chiếm tỷ trọng không đáng kể.

Phát triển kinh tế tuần hoàn là xu thế tất yếu (ảnh minh họa)
Tình hình phát triển kinh tế tuần hoàn trên thế giới và ở Việt Nam
Từ giữa thế kỷ 20, gia tăng nhanh dân số, sức ép của tăng trưởng, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, nhu cầu tiêu thụ các loại nhiên liệu và năng lượng đã làm gia tăng mạnh khai thác tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển bền vững được tất cả các Quốc gia thành viên Liên Hợp quốc thông qua vào năm 2015 đã đưa ra một kế hoạch chung về hòa bình và thịnh vượng cho con người và hành tinh của chúng ta trong hiện tại và trong tương lai, kêu gọi hành động khẩn cấp của tất cả các quốc gia bảo vệ môi trường đất, nước, không khí, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn rừng, biển, đại dương và giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu hướng tới một nền kinh tế các-bon trung tính, không phát thải vào năm 2050.
Theo ước tính của Liên Hợp quốc, đến năm 2030 nếu tiếp tục phát triển với mô hình kinh tế tuyến tính (dựa trên quá trình khai thác, sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng thải loại ra môi trường), nhu cầu sử dụng tài nguyên sẽ tăng gấp 3 lần so với hiện nay, vượt ngoài khả năng cung ứng của Trái Đất, lượng chất thải sẽ vượt giới hạn sức chịu tải của môi trường. Theo kết quả nghiên cứu, dự báo của Liên minh Châu Âu, từ năm 1970 đến năm 2017, lượng nguyên liệu khai thác toàn cầu hàng năm tăng gấp ba lần và tiếp tục tăng, đến năm 2050, lượng tiêu thụ toàn cầu sẽ bằng ba lần năng lực cung cấp của trái đất, gây ra rủi ro lớn trên toàn cầu về biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt, sạt lở đất, hạn hán, sụt lún đất, xâm nhập mặn, dịch bệnh, sâu bệnh là mối đe dọa nghiêm trọng tới an ninh lương thực, an ninh khu vực, hòa bình, ổn định, thịnh vượng và sức khỏe của người dân toàn cầu cũng như môi trường tự nhiên và sức khỏe của Mẹ Trái đất. Khoảng một nửa tổng lượng phát thải khí nhà kính, hơn 90% tổn thất đa dạng sinh học và căng thẳng về nước sạch là do khai thác tài nguyên và chế biến nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, thực phẩm và hàng hóa, dịch vụ.
Phát triển các mô hình kinh tế xanh, ít chất thải, các-bon thấp và tuần hoàn đang nhận được sự hưởng ứng của nhiều quốc gia, cộng đồng doanh nghiệp trên toàn thế giới. Trong đó, kinh tế tuần hoàn đang được xem là xu thế tất yếu của thời đại, được đồng thuận toàn cầu và được các nước trên thế giới coi là cuộc cách mạng công nghiệp xanh của thế kỷ 21, là cơ hội để cộng đồng toàn cầu chung tay thực hiện cam kết quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu nhằm mục tiêu phát triển bền vững vì sức khỏe của người dân, môi trường thiên nhiên và trái đất.
Đến nay, trên thế giới có hơn 30 quốc gia/vùng lãnh thổ đã, đang và dự kiến sẽ xây dựng các lộ trình thực hiện kinh tế tuần hoàn dưới các tên gọi khác nhau như kế hoạch, chiến lược, lộ trình, điển hình như: Kế hoạch hành động kinh tế tuần hoàn của Liên minh Châu Âu ban hành lần thứ 2 kèm theo khung giám sát và các chỉ tiêu về kinh tế tuần hoàn để định hướng chung cho toàn khối; nhiều chiến lược, định hướng hoặc quy định cụ thể để thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn được ban hành bởi Liên minh Châu Âu như dệt may, điện tử, nhựa, vật liệu xây dựng...
Năm 2021, Ủy ban ASEAN ban hành Khung kinh tế tuần hoàn cho Cộng đồng kinh tế ASEAN với tầm nhìn dài hạn với các tham vọng về kinh tế tuần hoàn dựa trên các sáng kiến hiện có và xác định các trọng tâm ưu tiên để hành động với các yếu tố để đẩy nhanh tiến trình hiện thực hóa nền kinh tế tuần hoàn trong khối ASEAN. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xác định việc thực hiện kinh tế tuần hoàn là một lộ trình dài hạn, có những quốc gia phát triểnnhư Hà Lan, Pháp, Nhật Bản, Úc, Chi lê… đều xác định các lộ trình thực hiện từ 10 đến 20 thậm chí 30 năm với những định hướng và hành động chiến lược hướng đến các khía cạnh như: nhận thức, hành vi và văn hóa; hoàn thiện thể chế, quy định pháp luật, huy động nguồn lực, kết nối chia sẻ các bên có liên quan thông qua việc sử dụng hiệu quả nhiều công cụ chính sách khác nhau để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế theo hướng bền vững, chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn; thúc đẩy quản lý chất thải theo các nguyên tắc, biện pháp của kinh tế tuần hoàn; hỗ trợ phát triển thị trường các hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế tuần hoàn như công nghệ, thiết bị, sản phẩm để thúc đẩy tái chế, tái sử dụng, sửa chữa, tân trang, phục hồi, thị trường các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ được tạo ra từ áp dụng kinh tế tuần hoàn như nguyên liệu, vật liệu tái chế, sản phẩm, hàng hóa đã qua sử dụng; dịch vụ tư vấn, đánh giá; kết nối và chia sẻ các bên, hợp tác quốc tế, giám sát, đánh giá trong thực hiện kinh tế tuần hoàn…Việc lựa chọn các ngành, lĩnh vực, sản phẩm, vật liệu, chất thải ưu tiên cho thực hiện kinh tế tuần hoàn của các quốc gia, khu vực cũng khác nhau do nhiều yếu tố như lợi thế, đặc trưng và nguy cơ phát sinh chất thải, ô nhiễm môi trường nhưng nhìn chung đều hướng đến chuyển dịch toàn diện, bao trùm để giải quyết đồng thời 03 mục tiêu quan trọng là giảm chất thải, bảo tồn vốn tự nhiên, đa dạng sinh học và góp phần giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Tại Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, thúc đẩy phát triển bền vững, kể từ “Đổi mới” năm 1986, xuyên suốt nhiều nhiệm kỳ, công tác bảo vệ môi trường bền vững, bảo đảm trong sạch về không khí, đất, nước, rừng, biển, đa dạng sinh học, không gian địa lý, cảnh quan, ứng phó biến đổi khí hậu ngày càng được chú trọng, nhấn mạnh hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội nhận định bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là “vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người”. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ban hành kèm theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2045 đã khẳng định “khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất”; Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; các Nghị quyết, chỉ thị về các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các vùng, miền và địa phương… được Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành gần đây cũng đề cập trực tiếp đến việc cụ thể hóa kinh tế tuần hoàn vào các ngành, lĩnh vực hoặc vùng cụ thể của đất nước. Nhiều chiến lược, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ ban hành gần đây như chăn nuôi, xuất nhập khẩu, hóa chất, bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh… đều xem kinh tế tuần hoàn là cách tiếp cận, giải pháp để đạt được các mục tiêu của ngành/ lĩnh vực.
Về quy định pháp luật, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ở khu vực ASEAN đưa kinh tế tuần hoàn vào Luật Bảo vệ môi trường và văn bản hướng dẫn dưới luật. Tại Điều 142 của Luật Bảo vệ môi trường số 72/QH14 đã đưa ra quy định về kinh tế tuần hoàn; Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường hướng dẫn chi tiết về tiêu chí, cách thức áp dụng, phân công trách nhiệm và cơ chế khuyến khích áp dụng kinh tế tuần hoàn. Ngoài ra, nhiều công cụ chính sách quan trọng có vai trò điều chỉnh hành vi của người sản xuất, tiêu dùng trong nền kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường sẽ góp phần thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn một cách toàn diện, hiệu lực và hiệu quả, như: phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, tính giá thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt dựa trên khối lượng hoặc thể tích; trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất và nhập khẩu; tái chế, tái sử dụng chất thải, phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, tín dụng xanh, trái phiếu xanh...
Trên thực tiễn đã xuất hiện những tín hiệu tích cực về áp dụng kinh tế tuần hoàn của doanh nghiệp, các Hiệp hội nghề nghiệp, các trường đại học, viện nghiên cứu, chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư đã có tín hiệu vào cuộc để hiện thực hóa chủ trương phát triển kinh tế tuần hoàn. Nhiều mô hình tốt từ thực tiễn dần được làm sáng tỏ trong các lĩnh vực như luyện kim, đồ uống, dệt may, chất thải, xây dựng, nông nghiệp, năng lượng, giao thông, du lịch, thương mại điện tử, giáo dục… tuy nhiên hầu hết các sáng kiến còn đơn lẻ, độc lập, chưa có tính chiến lược, thiếu tính chiến lược, hệ thống và bền vững.
Thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Nhận diện các điểm thuận lợi, tồn tại và hạn chế trong thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam Trên cơ sở phân tích thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và các khuyến nghị của các chuyên gia, tổ chức quốc tế cho thấy việc phát triển kinh tế tuần hoàn là yêu cầu tất yếu và xu thế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, trong nước đã có những tín hiệu hưởng ứng của cộng đồng khoa học, doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề, chính quyền địa phương. Bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều tồn tại và hạn chế trong thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, cụ thể như sau:
Những điểm thuận lợi trong thực hiện kinh tế tuần hoàn
Phát triển kinh tế tuần hoàn đã được khẳng định trong các văn kiện quan trọng của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng, đặc biệt là trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021–2030. Nhiều Nghị quyết, chiến lược, chương trình, đề án chuyên ngành của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã sớm đưa ra định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn.
Pháp luật về bảo vệ môi trường dựa trên cách tiếp cận kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh là chủ đạo, chính vì vậy, luật và các văn bản hướng dẫn đã có những quy định về kinh tế tuần hoàn, nhiều biện pháp khuyến khích, hỗ trợ, nhiều công cụ chính sách khác để thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn từ khu vực khai thác tài nguyên, chế biến, sản xuất, phân phối và tiêu dùng.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã góp phần hình thành các giải pháp, mô hình kinh doanh mới, khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực.
Sự chuyển dịch của dòng vốn tài chính theo hướng “xanh” ngày càng mạnh mẽ. Trong hơn 20 năm qua, tín dụng xanh và trái phiếu xanh đã trở thành công cụ quan trọng để huy động vốn cho các dự án có lợi cho môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, hỗ trợ các mục tiêu phát triển bền vững và Thỏa thuận Paris. Thị trường vốn tài chính xanh của Việt Nam có tiềm năng lớn để thu hút các nhà đầu tư trong nước và quốc tế về năng lượng tái tạo, quản lý chất thải, nông nghiệp xanh, giao thông các-bon thấp và quản lý tài nguyên nước.
Sự vào cuộc mạnh mẽ của các Hiệp hội ngành nghề, viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức, cá nhân có liên quan đã và đang góp phần không nhỏ trong việc nâng cao nhận thức, kiến thức và mô hình thực tế về kinh tế tuần hoàn trong thực tiễn. - Nhận thức và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước tạo động lực mới cho đổi mới trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Theo đó, đòi hỏi sản xuất sạch hơn và cung cấp hàng hóa, dịch vụ thân thiện với môi trường hơn.
Việc hội nhập quốc tế và thực thi các cam kết thương mại trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) đã tạo áp lực chuyển đổi đối với khu vực sản xuất, kinh doanh; theo đó các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm, hàng hóa gắn với thúc đẩy tái chế, tái sử dụng và tuân thủ các quy định về môi trường ngày càng chặt chẽ.
Tại Việt Nam, nhiều thị trường mới đã có những tín hiệu được hình thành như hàng hóa và dịch vụ môi trường, nguyên vật liệu thứ cấp, sản phẩm thân thiện với môi trường, trái phiếu xanh và tín dụng xanh.
Quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn đã và đang diễn ra ở nhiều quốc gia, bao gồm cả các nước phát triển và đang phát triển. Các bài học từ quá trình chuyển đổi đó sẽ cung cấp các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng và triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn.
Tồn tại và hạn chế trong thực hiện kinh tế tuần hoàn Việt Nam:
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế trong thực hiện kinh tế tuần hoàn cần được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Cụ thể:
Kinh tế tuần hoàn là vấn đề mới, đang được phát triển mạnh trên cả khía cạnh khoa học, chính sách và thực tiễn. Do đó, thực tiễn cho thấy nhận thức, kiến thức về kinh tế tuần hoàn còn nhiều hạn chế, chưa thống nhất giữa các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân.
Kinh tế tuần hoàn đòi hỏi cần có cách tiếp cận toàn diện xuyên suốt các chính sách ngành, lĩnh vực, các chủ thể trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cách tiếp cận có hệ thống trong quản trị cũng như trong các hoạt động kinh tế chưa được áp dụng hiệu quả.
Chưa hình thành bộ máy, hệ thống thông tin, dữ liệu, cơ chế giám sát việc thực hiện kinh tế tuần hoàn. Hiện nay, nhiều bộ, ngành, hiệp hội, trường đại học, viện nghiên cứu đã tham gia phát triển mô hình kinh doanh tuần hoàn ở Việt Nam, nhưng vẫn thiếu một cơ quan đóng vai trò đầu mối, điều phối các hoạt động tổng thể liên quan đến kinh tế tuần hoàn.
Tính hiệu lực, hiệu quả của các quy định pháp luật còn hạn chế. Mặc dù so với thế giới cho thấy Việt Nam đã xây dựng một hệ thống pháp luật, các công cụ chính sách tương đối toàn diện, hiện đại để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn, nhưng việc thực thi các quy định này còn thấp.
Thiếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật có vai trò quan trọng trong thực hiện kinh tế tuần hoàn như tiêu chuẩn về nguyên liệu, vật liệu thứ cấp, về công nghệ, thiết bị và sản phẩm liên quan khác. Điều này dẫn đến khó khăn trong áp dụng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho thị trường của lĩnh vực này.
Một số công cụ chính sách như đầu tư công, quyền lợi người tiêu dùng, thuế giá trị gia tăng, thuế bảo vệ môi trường chưa được đồng bộ để bảo đảm minh bạch, công bằng và bền vững trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên. Đồng thời, chưa tạo ra các áp lực tài chính và động lực để thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và người tiêu dùng nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế tuần hoàn.
Một số doanh nghiệp, cơ sở kinh tế còn lấy mục tiêu lợi nhuận trước mắt mà chưa tính đến lợi ích lâu dài, bền vững từ bảo vệ môi trường và sản xuất, kinh doanh theo hướng kinh tế tuần hoàn. Lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường trong thực hiện kinh tế tuần hoàn chưa phải là yếu tố chủ đạo dẫn dắt xã hội áp dụng kinh tế tuần hoàn.
Tư duy thực hiện kinh tế tuần hoàn ngay từ khi thiết kế các định hướng phát triển trong các chiến lược, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển còn hạn chế; việc thiết kế các sản phẩm, quy trình sản xuất, kinh doanh trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc, biện pháp và chiến lược của kinh tế tuần hoàn chưa được quan tâm.
Vai trò của Nhà nước hỗ trợ phát triển, điều tiết thị trường và hành vi của các chủ thể hướng tới mục tiêu khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện với môi trường chưa được phát huy.
Thị trường các hàng hóa, dịch vụ có liên quan đến kinh tế tuần hoàn bao gồm thị trường công nghệ, thiết bị, sản phẩm hỗ trợ cho thực hiện; các sản phẩm, vật liệu và hàng hóa được tạo ra từ áp dụng kinh tế tuần hoàn chưa được quan tâm, hỗ trợ nhằm đáp ứng thị trường quốc tế.
Vai trò và quyền lợi của người tiêu dùng trong tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ về kéo dài vòng đời sản phẩm như bảo hành, bảo hiểm, sửa chữa, tân trang, sản phẩm… chưa được chú trọng. Người tiêu dùng chưa được xem xét là trung tâm và đối tượng chính hưởng lợi trong thiết kế, sản xuất, phân phối và thu hồi các sản phẩm thải bỏ.
Việc sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường chưa phổ biến. Sản xuất và tiêu dùng sạch, tiêu dùng bền vững mới chỉ là khái niệm trong các văn bản chính sách, pháp luật chứ chưa được áp dụng rộng rãi trong thực tế. Nhận thức và trách nhiệm về khai thác, sử dụng và quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; thu gom, phân loại, tái chế, tái sử dụng chất thải trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt còn chưa cao.
Rất nhiều các sáng kiến, mô hình tốt trên thực tiễn về áp dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và quản lý chất thải ở cộng đồng dân cư chưa được phát hiện, khen thưởng, hỗ trợ và nhân rộng.
Cơ sở hạ tầng hiện có chưa đáp ứng yêu cầu thực tế về quản lý chất thải. Thiếu đồng bộ về công nghệ thu gom, xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải. Xếp hạng của Việt Nam về mức độ sẵn sàng cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư so với các nước còn thấp. Ngoài ra, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún, chưa tương xứng với việc đầu tư công nghệ cao. Mối liên kết giữa sản xuất và kinh doanh còn yếu.
Việc áp dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 như các công nghệ thông tin và truyền thông, hệ thống mạng, truyền thông mạng - Internet vạn vật (IoT), mô phỏng, phân tích dữ liệu, robot, thực tế ảo tăng cường và các công cụ thông minh hỗ trợ con người… chưa được gắn kết để thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn.
Nguồn lực tài chính để thực hiện quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn được ước tính là rất lớn. Tuy nhiên, việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực còn phân tán, chưa hiệu quả. Hoạt động hợp tác quốc tế, liên kết, hợp tác vùng, địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức có liên quan chưa được chú trọng, thiếu cơ chế liên kết, hợp tác có tính chiến lược và bền vững.
Hệ thống thông tin, giám sát, đánh giá thực hiện kinh tế tuần hoàn chưa được thiết lập đầy đủ, đồng bộ; sự tham gia của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; các hiệp hội ngành nghề trong giám sát, đánh giá và tư vấn thực hiện kinh tế tuần hoàn chưa cao.
Xuất phát từ thực tiễn, xu hướng khai thác tài nguyên, sản xuất và tiêu dùng, phát sinh chất thải do phát triển kinh tế - xã hội; bối cảnh trong nước và quốc tế; những thuận lợi, tồn tại và hạn chế trong thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam cho thấy việc xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành "Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2030" là phù hợp và hết sức cần thiết.
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang đăng tải lấy ý kiến đối với dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2030. Bộ Tài nguyên và Môi trường rất mong nhận được ý kiến góp ý các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân để hoàn thiện dự thảo Quyết định.
Chi tiết nội dung dự thảo Quyết định mời tải tại đây
Mời quý độc giả quan tâm góp ý tại đây.